Là cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, cây hoa cúc có thể sản xuất được quanh năm, cho nhiều màu sắc phong phú (vàng, tím, trắng), hoa bền đẹp, dễ bảo quản vận chuyển đi xa.
Đặc biệt hoa cúc rất dễ nhân giống vô tính, hiệu quả sản xuất cao. Tuy nhiên, trồng hoa nói chung, do quan niệm không phải là sản phẩm dùng cho người ăn hoặc chăn nuôi gia súc gia cầm nên nhiều nhà nông thường “thả phanh” sử dụng thuốc BVTV trong phòng trừ sâu bệnh hại trên nhóm đối tượng cây trồng này.
Điều này khiến không chỉ tăng chi phí sản xuất, giảm hiệu quả canh tác, mà còn ảnh hưởng rất lớn tới môi trường sinh thái và sức khỏe cộng đồng, nhất là những người trực tiếp sản xuất.
Trước tình trạng nêu trên, Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên đã triển khai mô hình trình diễn tiến bộ kỹ thuật sản xuất cây hoa cúc tại xã Chính Nghĩa (huyện Kim Động). Đây là mô hình thuộc Đề án “Phát triển vùng sản xuất cây ăn quả, hoa cây cảnh tập trung trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2020-2025”.
Mục tiêu chính của mô hình giúp các nhà nông đẩy mạnh thâm canh cây hoa cúc theo hướng bền vững, giá trị thu nhập tăng cao.
Kết quả, mô hình đã đạt được thành công ngoài sự mong đợi của nhân dân và chính quyền sở tại. Các loại hoa đưa vào trồng đều cho màu sắc đẹp, độ bền sử dụng cao hơn 2 – 3 ngày so với đối chứng trồng ngoài mô hình, hiệu quả sản xuất cũng tăng 25 – 30%. Đặc biệt đã giảm được gần 50% lượng thuốc BVTV phòng trừ sâu bệnh trên cây hoa. Nhờ vậy, môi trường làng quê đã trong lành hơn, người trồng hoa cũng đỡ mệt mỏi hơn sau mỗi ngày lao động…
Ông Nguyễn Văn Khương (hộ chuyên canh hoa ở xã Chính Nghĩa) vui mừng chia sẻ: Nhà ông trồng 20 sào hoa cúc, gồm 2 sào trong mô hình, 18 sào ngoài mô hình (coi như đối chứng). Cân đối thu chi sau thu hoạch, mỗi sào cúc trong mô hình thu được 30 triệu đồng, cao hơn đối chứng gần 10 triệu đồng (30%).
Các hộ tham gia trong mô hình đã tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) như: Xử lý đất trước khi trồng cây giống (cày phơi ải và ngâm ruộng trong nước vôi); luân canh cây hoa cúc với lúa nước hoặc cây rau muống; gieo trồng mật độ hợp lý (1,4 – 1,5 vạn cây/sào).